Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay năm 2023

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử chọn lọc hay 2023

Thơ Hàn Mặc Tử được mệnh danh là “Thơ điên” bởi trong chữ tình của ông luôn thấm đẫm chữ “điên” của sự khao khát, của nỗi chờ mong, của tiếng lòng vang vọng nhưng không được hồi đáp. Một trong những bài thơ trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử đó là “Đây thôn Vĩ Dạ”. Trong bài viết này, cùng Công Decor tham khảo những bài văn cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hay chọn lọc.

Dàn bài triển khai phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử

Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

– Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Thân bài

Khổ 1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– Câu hỏi có hai cách hiểu:

Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả

Lời phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

– Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

– Điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

Câu 3:

– Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

– “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

– Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

– Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

Khổ 2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

Câu 5 và câu 6:

– Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

– Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

– Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

Khổ 3. Tâm trạng của nhà thơ

– Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

– Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

– Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Kết bài

Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Những bài văn mẫu hay nhất cảm nhận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ cơ bản, ngắn gọn, đủ ý

Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất

Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng.

Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này.

Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài làm học sinh giỏi

Hàn Mặc Tử – một nhà thơ có cá tính sáng tạo đầy mạnh mẽ, bên cạnh những vần thơ sáng trong, thanh khiết ông còn có những vần thơ đầy kì dị, bí ẩn. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của ông là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ được ra đời trong những ngày tháng thi nhân lâm vào cơn bạo bệnh, thần Chết chực chờ cướp đi mạng sống người thi sĩ tài hoa.

Trong Đây thôn Vĩ Dạ, ta cảm nhận được cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thấy được tình người thắm thiết nhưng cũng man mác nỗi buồn thương, nhớ tiếc của thi nhân. Cảnh và tình như hòa quyện trong cõi thực, cõi mộng.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu thơ mở đầu của nhân vật trữ tình “Sao anh không về chơi thôn Vĩ đượm lời trách móc nhẹ nhàng. Lời hỏi tha thiết cất lên chứa chan cả một niềm mong cầu được gặp người nơi xứ Huế. Để cùng tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ- vùng ngoại ô xinh xắn, ấm áp tình người, tình quê. Nếu câu thơ đầu vừa như lời mời gọi, vừa như lời trách móc đầy yêu thương thì những câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ đầy xanh tươi, trong trẻo, khoáng đạt. Bắt gặp đầu tiên là hình ảnh “nắng hàng cau”, động từ “nhìn” được đặt đầu câu càng tô đậm sức cuốn hút của ánh nắng buổi bình minh. Đó là một màu nắng trong trẻo, tinh khôi của những tia nắng đầu tiên vươn mình lên hàng cau xinh đẹp trong vườn nhà. Ánh nắng long lanh, hòa trong những hạt sương đêm còn đọng trên mình lá càng tô thêm vẻ kiều diễm, kiêu hãnh của hàng cau trong vườn. Câu thơ gợi tả một sắc nắng rất riêng, tuy quen thuộc nhưng lại vô cùng độc đáo. Nắng thiên nhiên tưới tắm lên vườn nhà, cỏ cây được thưởng thức nắng mới lại càng sinh sôi, căng tràn nhựa sống.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Hòa trong màu nắng vàng của buổi bình mình là sắc xanh ngọc của cây cỏ vườn nhà. Câu thơ cất lên chứa đựng cả sự ngạc nhiên đến thẫn thơ của thi nhân trước thiên nhiên tươi đẹp, dạt dào sức sống. Cỏ cây xanh mướt, mỡ màng và bóng bẩy trong nắng, một cảnh vườn xinh xắn như hiện ra trước mắt người đọc. Sự tươi đẹp của khu vườn mà khu vườn có được là nhờ tạo hóa ưu ái hay bởi chính bàn tay vun vén, chăm sóc của con người.

Hòa trong cảnh thiên nhiên mơn man nhựa sống là bóng dáng người con gái yêu kiều, kín đáo thấp thoáng hiện ra sau nhành lá trúc mảnh mai:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

“Mặt chữ điền” là hình ảnh hoán dụ để chỉ người con gái xứ Huế. Ở họ mang vẻ đẹp đầy dịu dàng, e ấp, kín đáo. Giữa vườn thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người càng thêm nổi bật, tô đậm sự hài hoà giữa cảnh.

Sau cảnh vườn Vĩ Dạ xanh tươi là cảnh sông Hương êm đềm trong chiều hoàng hôn xuống, ánh đêm dần buông. Cảnh sông nước mang cả nỗi niềm bâng khuâng, thương nhớ, hoài vọng của thi nhân chốn xa xôi. Trở về trong nhận thức, tác giả thấp thỏm, âu lo trong nỗi sầu tâm cảnh:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?”

Thơ xưa viết về gió, mây để gợi buồn, gợi nhớ. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sự lang thang, trôi nổi của gió mây như chính cuộc đời nhà thơ cũng đang vô định, không biết bấu víu nơi chốn nào. Gió, mây vốn song hành, nhưng giờ lại theo lối riêng, đường riêng lại càng gợi sự chia lìa, dứt bỏ. Phải chăng lúc này đây nhà thơ cũng đã dự cảm về một cuộc đời ngắn ngủi của bản thân mình, rồi cũng như gió, mây kia mà thôi, chia lìa, xa cách chốn trần gian về với cõi vĩnh hằng. Ta không còn được thấy vẻ kiều diễm, tươi mát của khu vườn đầy sức sống như khổ thơ trước mà là nỗi u uất, buồn thương của một tâm hồn mang nỗi niềm chia lìa, tiễn biệt. Cũng bởi thế mà cảnh đượm buồn, đượm thương, dòng nước “buồn thiu” chảy trôi trên sông vắng, hoa bắp lay trong gió cũng mệt nhoài, chán nản. Tình ý đượm buồn thấm trong từng thức cảnh, đúng như thơ xưa từng nói:

“Cảnh buồn người thiết tha lòng

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Hai câu sau của khổ thơ chất chứa một nỗi mong cầu có kẻ tri âm về kịp, để cùng người tâm sự, sẻ chia :

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Đêm sông Hương tràn ngập ánh trăng, ánh vàng chiếu xuống càng làm dòng sông thêm thơ mộng, hữu tình. Cảnh tuy đẹp nhưng lòng người lại nhuốm sầu nhân thế. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã gửi gắm một nỗi khát khao, hoài vọng, mong cầu của thi nhân về một người bạn đời tới sẻ chia trước khi cái chết tìm tới mình. Nhưng liệu rồi, người ấy có về kịp hay không? Với ông, cuộc đời ngày thêm một ngắn, nỗi nhớ thương thì ngày lại dài thêm. Tiếng thơ tuy nhẹ nhàng mà đượm tình sâu nặng, vừa xót xa, vừa khắc khoải đợi chờ.

Thực tại không được như mong cầu, tác giả kiếm tìm đến giấc mơ, một giấc mơ tuy không hoàn mỹ nhưng chí ít cũng khuây khỏa được lòng người:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Một trái tim luôn chực chờ và khát khao yêu thương nên đến cả giấc mơ cũng mang màu nhung nhớ. Điệp ngữ “khách đường xa” kết hợp với động từ “mơ” và hình ảnh “áo em trắng quá” cho thấy được ảo ảnh đầy tươi đẹp về người con gái mà tác giả từng thương mến. Màu áo trắng tinh khôi, sáng trong, thanh khiết như chính tâm hồn của giai nhân xứ Huế.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Là một giấc mơ, nên dù nó có đẹp đến đâu nó cũng chỉ là giấc mơ, mà giấc mơ thì chẳng bao giờ có thực cả. Đối mặt với thực tại phũ phàng, sương khói khiến bóng hình người con gái như nhoà đi hay khoảng cách khiến tình người phai nhòa thêm. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” cuối bài thơ càng tô đậm nỗi phân vân, mặc cảm, lo sợ của tác giả về một tình cảm đơn phương, không biết rằng liệu tình cảm họ dành cho mình như thế nào? Có đậm đà hay chăng?

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ đẹp. Đẹp bởi bức tranh thiên nhiên xanh tươi nơi xứ Huế, đẹp bởi tình người bước ra từ trang thơ. Có thể nói, bằng một tâm hồn đầy yêu thương và tài năng trong ngòi bút, Hàn Mặc Tử đã viết nên một tuyệt tác bất hủ với thời gian.

Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:

“Sao anh không về chơi thôn Vi?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.

Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc…

Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.

Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyền trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng “sông Trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hy vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sở, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp”… ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết… Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế.

Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên của nơi thôn Vĩ. Cũng như nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gửi gắm trong bài thơ.